Tiếng Nam Kỳ là tiếng nói của một vùng đất hiền hòa, nơi con người theo con nước mà khai khẩn, dựng làng, lập chợ. Qua bao đời, thứ tiếng đó đã trở thành máu thịt của xứ này, tạo thành một nét văn hóa tưởng chừng là không thể tách khỏi lòng người Nam Kỳ. Vậy mà nay, giữa thời hội nhập, nó lại dần bị lấn át, bị thay thế, bị xâm lăng ngay trên chính mảnh đất đã sinh ra nó.
Lịch sử hình thành xứ Nam Kỳ
Nói về lịch sử hình thành vùng đất Nam Kỳ có lẽ nên kể từ độ Trịnh – Nguyễn phân tranh. Sử kể sau khi Nguyễn Kim bị đầu độc chết, quyền bính rơi vào tay người con rể là Trịnh Kiểm. Sau cái chết của cha, người anh đầu là Nguyễn Uông cũng bị ám hại, Nguyễn Hoàng nhận thấy tình hình rối ren và bắt đầu lo sợ. Tương truyền, Nguyễn Hoàng đã tìm đến và được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cho mấy chữ “Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân” tức là có thể dung thân ở chốn Hoành Sơn. Nguyễn Hoàng sau đó xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ vùng đất Thuận Hóa và trở thành vị chúa Nguyễn đầu tiên. Sau khi Nguyễn Hoàng mất, Nguyễn Phúc Nguyên lên thay và có những thái độ quyết liệt hơn với chính quyền Lê – Trịnh, từ đó mở ra thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh. Sau 45 năm giao chiến, dân tình lầm than, trăm họ khổ cực. Cuối cùng hai bên quyết định ngưng chiến, lấy sông Gianh làm ranh giới chia cắt lãnh thổ. Phía Bắc sông Gianh do chúa Trịnh cai quản gọi là Đàng Ngoài, phía Nam thuộc quyền chúa Nguyễn gọi là Đàng Trong. Từ đó, qua các đời chúa Nguyễn và vua Nguyễn, lãnh thổ Đàng Trong ngày càng mở rộng về phía Nam.
Chính thức thì dân Việt đã có mặt, khai phá và sinh sống ở vùng đất Nam Kỳ (lúc đó là xứ Đồng Nai) từ năm Tân Dậu 1621 (có sách nói là năm Quý Hợi 1623). Xứ Đồng Nai lúc này vẫn thuộc Chân Lạp, nhưng sau khi được chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là Ngọc Vạn cho, vua Chey Chettha II đã chấp thuận yêu cầu để người Việt tiến về phương Nam khai khẩn. Năm Kỷ Mùi 1679, hai tướng cũ nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên đem quân cập bến Đà Nẵng xin quy phục chúa Nguyễn vì không chịu làm tôi tớ dưới trướng nhà Thanh. Sau khi chúa Nguyễn Phúc Tần yêu cầu phía Chân Lạp cấp đất, Dương Ngạn Địch được chúa cho về khai phá vùng Mỹ Tho, còn Trần Thượng Xuyên thì về hướng Cù lao Phố. Đến năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược ở xứ Đồng Nai và dựng dinh, lập phủ. Năm Kỷ Mão 1699, vua Chey Chettha IV đem quân đánh Đại Việt, Nguyễn Hữu Cảnh lại được cử đi dẹp loạn và thắng trận vào năm Canh Thìn 1700, lãnh thổ Đàng Trong lúc này được mở rộng tới An Giang ngày nay.
Đi ngược lại những năm 1670, xứ Hà Tiên (lúc này là Mang Khảm thuộc Chân Lạp) xuất hiện một thương nhân người Hoa tên Mạc Cửu. Mạc Cửu vốn cũng là người Minh Hương như Ngạn Địch và Thượng Xuyên, sau cuộc chuyển giao quyền lực từ Hán tộc sang Mãn tộc thì đã di cư về phương Nam. Với công khai hoang lập ấp, ông đã biến xứ Rạch Giá – Hà Tiên trở thành một vùng đất trù phú, phồn vinh, buôn bán tấp nập. Sau nhiều lần bị Xiêm La quấy nhiễu mà Chân Lạp không đủ sức bảo vệ, Mạc Cửu đã đem lễ vật đến xin thần phục chúa Nguyễn. Năm Mậu Tý 1708, chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất, Mạc Thiên Tứ thay cha tiếp tục mở rộng đất đai, cộng thêm các vùng được các đời vua Chân Lạp lần lượt dâng cho chúa Nguyễn để cầu hòa. Tới giữa thế kỷ thứ 18, vùng đất Nam Kỳ gần như đã hoàn chỉnh. (1)
Đặc trưng của tiếng Nam Kỳ
Dân Nam Kỳ bản tính xuề xòa nên phát âm không trau chuốt, điệu đà như dân Bắc Kỳ, hay nói thẳng ra là phát âm “làm biếng”. Do đó kiểu phát âm xứ này có xu hướng tinh gọn, khỏi đánh lưỡi gì ráo, dấu hỏi dấu ngã như nhau. Thí dụ như “mít” nói thành “mích”, “ăn” nói thành “ăng”, “huyền” nói thành “quyềng”, “vô” nói thành “dô”, “giữ gìn” nói thành “dử dình”,… Một số vùng còn nói “nếp” là “níp”, “đêm” là “đim”,…; lại có vùng nói “cưới” là “cứ”, “trăm rưỡi” là “chăm gử”, “rảnh rỗi” là “gảnh gổi”,… (2)
Ngoài phát âm, Nam Kỳ cũng có những từ vựng riêng của xứ này, nghe là biết liền: bán rẻ một chút thì kêu là “bán nới”, cân mà dư chút xíu thì kêu là “cân dác” như “hai ký lô dác”, phơi mà chưa khô hẳn thì kêu là “dốt dốt”, không có chỗ chê thì kêu là “hết sẩy”, anh đó là “ảnh”, chị đó là “chỉ”, em đó là “ẻm”, cô đó là “cổ”, rồi “ổng”, rồi “bả”,… gọn hơ.
Như đã nói, Nam Kỳ là vùng đất đa văn hóa, tiếng Việt theo gót ông cha vô phương Nam mở cõi đã gặp gỡ tiếng Khmer của dân bản địa, tiếng Hán của dân Minh Hương di cư, và cả tiếng Pháp khởi đầu từ các nhà truyền giáo, từ đó tiếp biến để hình thành một kho tàng từ vựng mới.
Một số từ mượn gốc Khmer:
Loại bếp nấu củi được làm bắt đất nung là “cà ràng” (ចង្រ្កាន/changkran)
Làm gì đó một mình là “mình ên” (ម្នាក់ឯង/mneak aeng)
Dụng cụ bắt cá được đan bằng tre là “lợp” (លប/lob)
Quá chỗ cần dừng là “huốt” (ហួស/huos)
Loại giỏ lớn đan bằng tre là “cần xé” (កញ្ជេ/kanche)
Một số từ mượn gốc Hán:
Loại áo dài nữ kiểu Hoa là “xường xám” (長衫/cheung sam)
Món ăn làm từ thịt và mỡ xay rồi nhồi vô ruột heo là “lạp xưởng” (có chỗ kêu là “lặc xưởng”, “lạp xường”) (臘腸/lap cheung)
Tiệm tạp hóa là “chạp phô” (雜貨/zaap fo)
Tiền “lì xì” trong dịp đầu năm cũng là từ gốc Hán (利市/lei si)
Một số từ mượn gốc Pháp:
Tài xế xe hơi là “sốp phơ” (chauffeur)
Đi chung với “sốp phơ” là một anh “ét” (aide: phụ tá) hoặc có chỗ kêu là “lơ” (contrôleur: kiểm soát viên)
Tủ đựng đồ ăn là “gạc măng rê” (garde-manger)
Phân nửa là “đờ mi” (demi)
Hay nhìn chiếc xe đạp thôi là đủ thứ từ gốc Pháp: “ghi đông” (guidon), “líp” (libre), “sên” (chaîne), “pê đan” (pédale), “ba ga” (porte-bagages),…

Nguồn hình: Pinterest
Ngoài từ mượn, còn một thứ nữa giúp mở rộng kho từ vựng của tiếng Nam Kỳ là tục kỵ húy. Kỵ húy tức là tránh nói tên một số người (thường là vua chúa, người trong hoàng tộc hoặc các vị danh tướng) để tỏ lòng kính trọng hoặc tránh bị quở phạt. Thí dụ:
Chúa Nguyễn Phúc Khoát lấy hiệu là Vũ Vương nên dân Nam Kỳ thay chữ “vũ” bằng chữ “võ”, từ đó có “cổ võ” thay cho “cổ vũ”.
Vua Tự Đức nguyên danh là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, nên thay vì nói “nhậm chức” dân Nam Kỳ sẽ nói “nhiệm chức”.
Còn có lấy “kiểng” thay cho “cảnh”, “kiếng” thay cho “kính” vì tránh tên con cả của vua Gia Long là Hoàng tử Cảnh và tên của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Nguyễn Hữu Kính), vậy là có “cây kiểng” thay cho “cây cảnh”, “cúng kiếng” thay cho “cúng kính”.
Lại có “thới bình” thay cho “thái bình” vì kiêng tên chúa Nguyễn Phúc Thái.
Hay “nguơn soái” thay cho “nguyên soái”, “nguơn quán” thay cho “nguyên quán” để tránh tên chúa Nguyễn Phúc Nguyên.
Còn nữa, nhiều lắm, kể không hết.

Tương tự, các chữ “thượng nguyên “(上元), “trung nguyên” (中元), “hạ nguyên” (下元) đều được dân Nam Kỳ đổi thành “thượng nguơn”, “trung nguơn”, “hạ nguơn” theo tục kỵ húy.
Nguồn hình: Sĩ Nguyễn
Còn khi nói chuyện thì dân Nam Kỳ hay mở đầu bằng chữ “dạ”, chữ “thưa” để thể hiện sự kính trọng, riết thành quen: “Dạ anh kiếm ai?”, “Dạ cám ơn chị”, “Dạ lâu quá mới gặp anh” hay “Thưa ba má con mới về”, “Thưa anh”, “Thưa chị”. Con nít Nam Kỳ hễ có khách tới nhà chơi là phải chạy ra khoanh tay “Thưa chú Út”, còn mà nghe người lớn kêu là phải “Dạ” cho lớn trước rồi chạy tới liền. Chữ “dạ” thì không phân biệt lớn nhỏ, ông bà già Nam Kỳ xưa cũng “Dạ cám ơn cậu” như thường. Đẹp là vậy.
Nguy cơ có tên trong sách đỏ
Ngày nay khi non sông về một mối thì cái mối dây ngôn ngữ cũng trôi tuốt về Hà Nội, tiếng Nam Kỳ vì vậy mà cũng lép vế theo. Đi dọc đường sá Nam Kỳ mà thấy toàn những từ ngữ xa lạ lên ngôi: “bãi đỗ xe” thay cho “bãi đậu xe”, “rẽ” thay vì “quẹo”, “vòng xoay” chứ không còn “bùng binh” nữa. Sách dạy cho con nít cũng vắng bóng tiếng Nam Kỳ, mà toàn là “bố mẹ”, “con lợn”, “quả bưởi”, “đĩa muối”,…
Còn nhớ báo Thanh Niên từng đưa bài “Bố nổ súng bắn người tông chết con gái ở Vĩnh Long”, ở xứ Vĩnh Long làm gì có ai kêu cha bằng “bố” đâu, vậy mà cũng viết cho đặng.
Phim Nhà Gia Tiên thì đánh tiếng trên truyền thông là giữ gìn văn hóa miền Nam vậy mà có hiểu gì về miền Nam đâu. Dân miền Nam nói “anh đang mắc công chuyện”, “đi lòng vòng”, “đốt nhang” chớ ai mà nói “anh đang bận”, “đi dạo”, “thắp nhang” như lời thoại trên phim vậy hả? Rồi mấy bữa sau thấy anh đạo diễn (cũng là biên kịch) phim này lên trả lời phỏng vấn, ảnh nói 10 câu là hết 8 câu “trộm vía” rồi. Nam Kỳ này sao mà lạ quá.
Còn có những kênh YouTube đua nhau làm nội dung về miền Tây mà “cho một thìa đường”, “bổ quả dừa”, “cho vào bát”, “chần qua nước sôi”, một anh phát thanh viên đài Trà Vinh “dạ vâng ạ” ngay trên sóng, nghe mà nổi da gà.
Nói tiếng Nam Kỳ đâu là quê mùa mà nói tiếng miền khác cũng đâu là sành điệu, giữ tiếng quê là giữ lấy căn cốt, giữ tiếng nói của tổ tiên mình. Vậy thì xin những người con Nam Kỳ hãy giữ gìn thứ tiếng thiệt thà của quê mình, hãy nói “ông bà” thay vì “các cụ”, “ẵm” thay vì “bế”, “bén” thay vì “sắc”, “nước lèo” thay vì “nước dùng”, “dầu thơm” thay vì “nước hoa”, “mắc cỡ” thay vì “xấu hổ”, “ngàn” thay vì “nghìn”, “ký lô” thay vì “cân” hay “trăm gờ ram” thay vì “lạng”.
Bỗng một ngày nhìn lại, tiếng Nam Kỳ trở thành thứ ngôn ngữ hạng hai ở xứ Nam Kỳ, tiếng dạ lời thưa cũng ngày càng xa vắng. Dạ cho hỏi có buồn không?
(1) Sau này dưới thời vua Minh Mạng, Đại Việt và Xiêm La thỏa thuận chia nhau vùng đất Chân Lạp, Đại Việt mở rộng lãnh thổ về phía Tây và lập trấn Tây Thành. Tuy nhiên sau khi chiếm đóng Đông Dương, Pháp đã vẽ lại bản đồ và trả trấn Tây Thành về lại cho Campuchia. Vì vậy vùng đất Nam Kỳ dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát và hiện tại không có quá nhiều sự khác biệt.
(2) Cách viết các từ này chỉ nhằm mô phỏng âm giọng Nam Kỳ một cách tương đối để dễ hình dung.