Trong lịch sử Việt Nam có một vị vua đặc biệt, dù là thành công lấy lại cơ đồ đã mất, giữ vững giang sơn suốt thời gian trị vì nhưng vẫn bị hậu thế ruồng rẫy, khinh miệt và ghét bỏ. Đó là Gia Long Nguyễn Ánh.
Đôi điều về Nguyễn Ánh
Năm Ất Dậu 1765, thời kỳ Việt Nam còn phân chia hai Đàng. Khi vị chúa thứ 8 của Đàng Trong là Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát qua đời, di chiếu truyền ngôi cho Nguyễn Phúc Luân vì thế tử Nguyễn Phúc Hạo đã mất trước đó trong khi con của thế tử là Nguyễn Phúc Dương còn quá nhỏ. Nguyễn Phúc Luân lúc này đã 33 tuổi, được mô tả là người thông minh, quyết đoán và biết quan tâm hiện tình đất nước, nhưng những đức tính này không phải là thứ mà quyền thần Trương Phúc Loan cần ở một vị chúa. Phúc Loan sau đó thông đồng với các gian thần khác trong triều lén thay đổi di chiếu, lập Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi chúa để dễ bề lấn quyền, đồng thời tống ngục Phúc Luân. Phần vì buồn rầu phần vì uất ức, Nguyễn Phúc Luân mất trong ngục vào tháng Mười cùng năm, con của Phúc Luân là Nguyễn Ánh lúc này mới 3 tuổi.
Năm Tân Mão 1771, ba anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa chống lại Trương Phúc Loan đang làm Quốc phó. Đến năm Ất Mùi 1775, Nguyễn Ánh lúc này 13 tuổi cùng anh em chạy về phía Nam lánh nạn rồi dần dần tập hợp lực lượng, lập thành quân đội. Sau gần 30 năm giằng co và nhiều lần bị truy sát, đến năm Nhâm Tuất 1802 Nguyễn Ánh đánh tan quân Tây Sơn rồi làm lễ lên ngôi Hoàng đế ở thành Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long tức Gia Định và Thăng Long, mở ra triều đại quân chủ cuối cùng của nước ta.
Vì sao Nguyễn Ánh không được lòng hậu thế?
Để nói về vấn đề này có lẽ nên nói về Karl Marx và câu chuyện đấu tranh giai cấp. Theo Marx, sự xung đột giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị là động lực phát triển của xã hội, và cho rằng việc thực hiện cách mạng lật đổ là chuyện nên làm. Lý thuyết này của Marx có ảnh hưởng rất lớn tới các nước chủ nghĩa xã hội, trong đó Việt Nam. Vì vậy, cùng với các vị như Hai Bà Trưng, Mai Thúc Loan hay Lê Lợi, phong trào nông dân nổi dậy của Tây Sơn được xem là tiêu biểu cho xu hướng tiến bộ. Từ đó, Nguyễn Huệ vừa vặn là một hình mẫu lý tưởng cho vai chính diện, và lối tư duy nhị nguyên đã bóp Nguyễn Ánh cho vừa vào vai phản diện trong cuộc chiến này.
Trong bài thơ Lịch sử nước ta, Hồ Chí Minh đã thẳng thừng phê phán Nguyễn Ánh như sau:
“Gia Long lại dấy can qua
Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.
Tự mình đã chẳng có tài,
Nhờ Tây qua cứu tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dầy mả, thiệt là ngu si.”
Trong đoạn thơ trên, cái tội lớn nhất mà người ta gán cho Nguyễn Ánh là tội cõng rắn cắn gà nhà. Cụ thể, để chống lại Tây Sơn ông đã cầu viện Xiêm La năm Giáp Thìn 1784, cầu viện Pháp năm Đinh Mùi 1787, và một chi tiết nữa là khi nghe tin quân Thanh tiến sang giúp Lê Chiêu Thống đánh Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã sai quân chở gạo ra để tiếp tế, tuy nhiên không thành vì thuyền gạo bị đắm. Đó là những câu chuyện có thật nhưng việc khắc họa Nguyễn Ánh là người bất tài chỉ biết dựa vào ngoại bang, xem chừng là phiến diện và bất công. Ít người biết, trước Nguyễn Ánh thì Nguyễn Nhạc đã từng cậy nhờ một viên chức người Anh là Charles Chapman về thuyết phục Thống đốc xứ Bengal cử người sang giúp huấn luyện binh sĩ, đồng thời chi viện thêm tàu chiến, đổi lại ông sẽ nhượng đất cho họ. Tuy việc này sau đó không thành, nhưng có thể thấy tư duy tìm kiếm và sử dụng đồng minh trong chiến cuộc thời đó không phải là hiếm gặp. Trở lại với Nguyễn Ánh, ông là người đã thống nhất đất nước sau 175 năm tính từ lúc chia cắt hai Đàng. Trong 18 năm Nguyễn Ánh trị vì, bờ cõi nước Nam cũng không hề lay động. Vậy Nguyễn Ánh có thật sự là bất tài không?

Trang 352, sách Narrative of a voyage to Cochinchina của Charles Chapman
Nói tiếp cái tội thứ hai của Nguyễn Ánh là rước Tây để rồi làm mất nước. Vậy thì cần nói về bản Hiệp ước Versailles, đây là bản hiệp ước mà Giám mục Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Behaine) đại diện Nguyễn Ánh ký với thượng thư Bộ Ngoại giao Pháp là Armand Marc vào năm Đinh Mùi 1787, và cũng là thứ mà người ta cho là tiền đề của việc Pháp xâm lược nước ta. Nhưng cần nhắc rằng hoàn toàn không có điều khoản nào trong bản hiệp ước này được thực hiện vì lúc này Hoàng gia Pháp đã khánh kiệt ngân sách, thậm chí còn từ bỏ tham vọng viễn chinh Đông Dương. Sau đó hai năm, Hoàng gia bị lật đổ bởi cuộc cách mạng Pháp năm 1789, hiệp ước Versailles từ đó được xem là bản hiệp ước chết. Về phía Bá Đa Lộc, sau thời gian dài chờ đợi mà không được Pháp chi viện, ông đã tự bỏ tiền túi, đồng thời kêu gọi quyên góp từ các thương nhân muốn mở rộng buôn bán sang phương Đông để mua súng đạn và tàu chiến, nhóm người Pháp theo Bá Đa Lộc sang giúp Nguyễn Ánh cũng là những người tình nguyện chứ không một người nào được chính phủ Pháp cử đi.
Vào năm Đinh Sửu 1817, sau khi Nguyễn Ánh giành lại được giang sơn, Pháp có cử thuyền trưởng tàu La Cybèle là De Kergariou đến yết kiến và yêu cầu nhà Nguyễn giao Côn Lôn (nay là Côn Đảo) như đã hứa trong hiệp ước, nhưng bị Nguyễn Ánh thẳng thừng từ chối vì trước đó Pháp có thực hiện được điều khoản nào trong hiệp ước đâu. Sự thật lịch sử là Pháp có tấn công nước ta và bắt đầu lấy ba tỉnh Nam Kỳ theo hòa ước Nhâm Tuất, nhưng đó là vào năm 1862 tức là 60 năm kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi và 42 năm kể từ khi Nguyễn Ánh mất. Vậy đổ lỗi mất nước cho Nguyễn Ánh có gượng gạo lắm không? Sự kiện thuộc địa hóa Đông Dương nên được nhìn nhận là hệ quả của làn sóng chủ nghĩa thực dân lan rộng trên toàn thế giới, Lào với Campuchia trước đó có ký hiệp ước nào đâu, vậy mà cũng bị chiếm đó thôi.
Cái tội nữa của Nguyễn Ánh là trả thù Tây Sơn quá tàn độc. Cụ thể, những người trong huyết tộc và các tướng lĩnh của Nguyễn Huệ bị xử tử bằng hình thức chém đầu, lăng trì hoặc voi giày, lăng mộ các vua Tây Sơn bị quật phá, hài cốt bị tiêu hủy, hơn nữa Nguyễn Ánh còn ra lệnh truy sát cả dòng họ của Nguyễn Huệ cùng thân quyến các danh tướng Tây Sơn, khiến nhiều gia đình bị tận diệt hoặc phải đổi họ để tránh nạn.
Nhưng liệu Nguyễn Ánh có phải là người hiếu sát? Nhìn lại lịch sử, họ Trịnh và họ Nguyễn có mối thâm thù từ độ Nam Bắc triều, họ đánh nhau dai dẳng hơn 45 năm vậy mà khi lấy được giang sơn, Nguyễn Ánh vẫn hậu đãi, còn cấp tiền cấp đất cho con cháu họ Trịnh. Vậy chuyện gì đã dấy lên cơn thịnh nộ của Nguyễn Ánh?
Thứ nhất, nên nhớ trong mắt Nguyễn Ánh thì Tây Sơn không khác gì quân phiến loạn, mà đã là phiến loạn thì bị tru di cũng không có gì là lạ ở xã hội phong kiến. Nguyễn Trãi vì bị vu cho tội giết vua mà phải chịu tru di tam tộc, huống chi Tây Sơn lại còn tàn sát cả Hoàng tộc nhà Nguyễn.
Thứ hai, theo Đại Nam Thực Lục, ngoài chuyện quan quân Tây Sơn giết chóc, cướp phá khắp nơi, Nguyễn Huệ còn cho đào bới các lăng của tám đời chúa Nguyễn và cả lăng của Nguyễn Phúc Luân tức cha của Nguyễn Ánh, hài cốt thì đem vứt bỏ, bấy nhiêu thôi cũng đủ để Nguyễn Ánh hận Nguyễn Huệ thấu xương. Cần nói thêm, chuyện lăng mộ họ Nguyễn bị đào bới là có thật, tuy nhiên việc này có phải là do Tây Sơn làm hay không thì vẫn còn tranh cãi. Nhiều người cho rằng Đại Nam Thực Lục là bộ sử của triều Nguyễn nên sẽ thiếu khách quan, nhưng nên nhớ chuyện Nguyễn Ánh trả thù Tây Sơn cũng được ghi chép rõ ràng trong bộ sử này. Vậy tại sao lại tin chi tiết trả thù là có thật mà lại cho rằng nguyên nhân trả thù là do nhà Nguyễn ngụy tạo?

Một người dân địa phương tên Ngọc Huyên đã vớt được hộp sọ của Nguyễn Phúc Luân sau khi hài cốt của ông bị bỏ xuống sông, sau này vua Gia Long nhận lại hộp sọ của cha và chôn cất lại tại đây.
Nguồn hình: Báo Tri Thức & Cuộc Sống
Nhìn lại lịch sử thì việc trả thù của Nguyễn Ánh có phần quá tay, tuy nhiên nếu đứng ở bối cảnh xã hội thời đó và từ góc nhìn của một người bỗng dưng bị diệt tộc, mấy mươi năm bị truy sát, nếm mật nằm gai, tổ tiên bị đào mồ cuốc mả, thì sự trả thù này xem ra cũng không là vô lý.
Nên giữ thái độ khách quan khi nhìn về lịch sử
Ở Đàng Trong, Tây Sơn mang danh diệt Quốc phó Trương Phúc Loan để khởi nghĩa, sau Nguyễn Nhạc lại muốn lập Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương làm vua nên gả con gái là Thọ Hương cho Hoàng tôn. Ở Đàng Ngoài, Tây Sơn mang danh phò Lê diệt Trịnh để tranh thủ sự ủng hộ của nhà Lê. Tuy nhiên cả hai người được Tây Sơn phò trợ này về sau đều tìm cách trốn chạy rồi quyết liệt chống trả, kết quả là một người bị đánh phải chạy sang Trung Quốc (Lê Chiêu Thống) và một người bị Tây Sơn hạ sát (Nguyễn Phúc Dương). Nếu Tây Sơn thực tâm phò trợ thì tại sao lại vậy? Nói để thấy rằng ở đời ai cũng có mặt sáng và mặt tối, chỉ là ta có muốn thấy hay không thôi.
Thời Việt Nam Cộng Hòa, miền Nam có trường học mang tên vua Gia Long mà cũng có trung tâm Huấn luyện mang tên vua Quang Trung, điều đó cho thấy ở cùng một thời kỳ vẫn có thể tôn vinh cả hai nhân vật lịch sử đối nghịch. Tiếc rằng lịch sử Việt Nam giờ đây được giảng dạy dưới góc nhìn của ý thức hệ cách mạng. Cách tiếp cận này biến lịch sử trở thành công cụ tuyên truyền, thay vì là một quá trình nhận thức khách quan. Khi lịch sử bị tô lên màu sắc ý thức hệ, thế hệ sau không còn thấy được sự phức tạp, mâu thuẫn và nhân tính thật của những người phải gánh trên vai vận mệnh đất nước.

Nguồn hình: Internet
Hệ quả là thay vì học sử để hiểu, chúng ta lại học cách phán xét lịch sử bằng tiêu chuẩn đạo đức hiện tại. Nguyễn Ánh vì thế bị biến thành biểu tượng của hành động bán nước cầu vinh, trong khi ông chỉ là một người giữa thời cuộc đầy biến động, có toan tính, có sai lầm, nhưng cũng đầy kiên định và tài năng trong việc giành lại cơ đồ. Có lẽ, đã đến lúc ta nên trả lại cho lịch sử quyền được trung thực với chính nó.